Một sự kiện đáng nhớ gắn liền với sự ra đời của cuốn sách mang tựa đề “phân tích chức năng của ngôn ngữ học đối chiếu” (Contranstive function analysis) năm 1998 của Chesterman, một giáo sư trường đại học Helsinki đã thông minh đặt một cái tên rất phù hợp cho tựa đề cuốn sách của ông. Cuốn sách có nội dung liên quan nhiều đến phương pháp luận, vì vậy tác giả đã kết hợp “phân tích” (analysis) với “chức năng” (functional). Mặt khác, tựa đề sách cũng thể hiện một nghĩa khác về 3 phần riêng biệt đó là “đối chiếu” (contrast), “chức năng” (functional) và “phân tích” (analysis) phản ánh các phần nội dung tương ứng của sách là về lý thuyết, phương pháp luận, và ứng dụng. Tất nhiên chúng ta cũng không bỏ qua yếu tố thứ tư là “thuật tu từ” của tựa đề để nói lên bức tranh khái quát về nội dung của quyển sách này.
Khi nhìn vào năm xuất bản của cuốn sách ta sẽ thấy được đây là một công việc đầy ý nghĩa cho ngành ngôn ngữ học phương Tây, nó có thể là ngẫu nhiên, xét trong vòng 10 năm trở lại đây, còn thời điểm trước đó thì chỉ có: Jespersen (1924) và một loạt bài luận của Whorf vào những năm 1940, Lado (1957), Di Pietro (1971), Carl James (1980), và Krzeszowski (1990). Sau Krzeszowski, Chesterman (1998) đã tạo ra ảnh hưởng lớn và sâu sắc đến nhận thức về luận thuyết của tất cả những nghiên cứu trước đó. Trong 20 năm qua, sự phát triển lý thuyết của ngôn ngữ học đối chiếu nằm trong sự trì trệ. Lado (1957) đã có đóng góp cho sự khởi đầu, Di Pietro (1971) lại rơi nặng nề vào lĩnh vực ngữ pháp cải biến (transformational grammar), Carl James (1980) đưa ra một định hướng không có giải pháp, trong khi Krzeszowski (1990) lại đưa ra một hệ thống phức tạp hơn là tinh tế. Chesterman (1998) đã không đưa ra một luận thuyết ngay từ đầu mà là những minh họa rõ nét và sinh động về các vấn đề của lý thuyết một cách toàn diện và sâu sắc, đã hoàn thiện quá trình phát triển của CA trong 50 năm qua. Những đóng góp chính của ông bao gồm:
1. Những thảo luận mang tính triết học về các khái niệm cơ bản quan trọng trong đối chiếu như “sự giống nhau” (similarity), “sự tương tự” (equivalent) và “nghĩa” (meaning), .v.v.v
Cuốn sách bắt đầu với những đánh giá sâu sắc và đầy thách thức về sự giống nhau như là một yếu tố cơ bản trong nghiên cứu đối chiếu và dịch thuật. Sự giống nhau là một khái niệm không rõ ràng nhưng lại có được nhiều sự chấp nhận. Trước đó chưa có ai đề xuất ý kiến về việc phân loại khái niệm này. Dựa trên những nghiên cứu ngắn gọn của các nhà tâm lý học ( như Sovran 1992, Tversky 1977, Goofman 1972, Medin và Goldstone 1995, …), Chesterman đã đưa ra kết luận về khái niệm sự giống nhau được hình thành như là cơ sở nhận thức không chỉ cho các ngành học mà còn cho nghiên cứu của ông. Đưa ra những dẫn luận mới cho khái niệm cũ đã đặt các nghiên cứu về đối chiếu lên “bước chân kinh nghiệm”, Chesterman đã thành công khi thắp lên trong người đọc sự tư duy đầy cảm hứng. Cách giải thích và kết hợp của ông được trình bày sơ lược như sau:
Là một khái niệm khó, sự giống nhau không chỉ gắn liền với thế giới các vấn đề vật lý hay logic, hoặc thậm chí vấn đề của xã hội, mà còn cả sự nhận thức (Chesterman 1998:6-7). Có 2 khía cạnh của sự giống nhau là: “sự giống nhau là ta” (similarity-as-trigger) (mang tính mục đích, đạt được sự nhận thức từ tư duy đến vấn đề). Tuy nhiên bất cứ sự định lượng hay đánh giá nào về sự giống nhau đều là các cách tổ chức và làm rõ sự vật hiện tượng của thế giới phản ánh trong ý thức mỗi người. Trong nghiên cứu của Medin và Goldstone cho rằng sự giống nhau hàm ý về sự liên tưởng liên tiếp, ví dụ khi chúng ta nói A giống với B thì thực ra chúng ta có ý rằng “A giống với B về một khía cạnh C theo bởi khi so sánh với D, lại liên quan đến một E tiêu chuẩn nào đó được lập ra trên sự thay đổi bởi một cái F chức năng nào đó hướng tới một cái G mục đích nào đó; Chesterman đã rút ra những giá trị quan trọng mang tính lý thuyết cho ngôn ngữ học đối chiếu và dịch thuật, xây dựng một nội dung rõ ràng về mức độ giống nhau đã bị xao lãng quá nhiều trước đây. Mô phỏng qua việc phân tích mối liên hệ điển thể-cá thể (type-token) của Sovran, Chesterman phân ra 2 loại giống nhau: loại phân ly (di chuyển từ điển thể đến cá thể) và hội tụ (di chuyển từ cá thể đến điển thể). Ông giải thích rằng các thuyết về dịch thuật hình thành cách sử dụng khái niệm phân ly, trong khi các phân tích đối chiếu sử dụng khái niệm hội tụ. Sự giống nhau có nguồn gốc từ sự liên tưởng, nó liên quan chặt chẽ với sự tri giác và nhận thức, và năng lực nhận thức sự giống nhau bị hạn chế bởi trí tưởng tượng của con người. Điều này đặc biệt đúng với quá trình dịch thuật.
2. Các nghiên cứu về đối chiếu và dịch thuật được liên kết với các cơ sở lý thuyết trong thời kỳ đầu.
Trong các nghiên cứu đối chiếu trước kia, dịch thuật chủ yếu là để khái niệm về sự tương đồng được sử dụng như là “cột sống” của sự phân tích đối chiếu, và việc phân tích đối chiếu có thể hỗ trợ cho việc dịch thuật. Hartmann (1980) đã đi tiên phong trong việc kiểm tra tính ứng dụng của văn bản học đối chiếu để chống lại sự phức tạp trong dịch thuật, dịch thuật văn học và văn học so sánh. Nhưng qua Chesterman, một nhà đối chiếu học và lý luận dịch thuật, chúng ta đã hiểu được điều về một giá trị lý thuyết liền mạch trong các nghành học liên quan về dịch thuật và ngôn ngữ học đối chiếu. Sự dung hợp đến một cách tự nhiên từ một nguyên nhân chung: cả lý thuyết dịch thuật và phân tích đối chiếu đã giải quyết được sự giống nhau và khác nhau trong ngôn ngữ và ứng xử ngôn ngữ. Như đã biết từ trước, mục tiêu của lý thuyết dịch thuật tập trung vào loại giống nhau hội tụ. “Tính đơn điệu” khái niệm trong cả 2 lĩnh vực này có thể kết hợp với khái niệm đa dạng về “sự tương đồng”, dẫn đến sự khác biệt về khái niệm trong đối chiếu. Bắt cặp dịch thuật với phân tích đối chiếu đã thay đổi hướng đi một chiều từ CA đến ngôn ngữ thứ hai đã cho thấy CA đã tự do phát triển trong phạm vi nhận thức và ứng dụng rộng lớn.
3. ví dụ về cách gọi đầu tiên và hiện tượng của ứng xử ngôn ngữ như điểm xuất pháp trong phương pháp luận nghiên cứu đối chiếu.
Độc giả Trung Quốc Đại Lục, theo truyền thống luôn đánh giá cao hiện tượng ngôn ngữ, có thể làm ngạc nhiên ở cách xưng hô này từ khi họ may mắn có được Lũ Shuxiang làm người đặt nền tảng cho nghiên cứu đối chiếu ở Trung Quốc, người sẽ không làm giảm đi các giá trị ngôn ngữ ban đầu. Tuy nhiên ở phương Tây, mặc dù Jespersen đã biện hộ cho phươn pháp nghiên cứu I-O (1924: 346), Whorf cũng yêu cầu “việc sử dụng quan điểm toàn cầu về các hiện tượng ngôn ngữ”, tạo ra các khái niệm không mới không cũ (Whorf 1937: 87), ngôn ngữ học đối chiếu truyền thống từ năm 1950 quay trở lại mô hình ban đầu hoặc một turtium comparationis. Để minh họa, điểm khởi đầu của James là cấu trúc bề mặt, cấu trúc chiều sâu và sự tương đồng trong dịch thuật (1980: 168-78); trong khi theo Krzeszowski thì có 7 loại turtia comparationis hình thành dựa trên sự tương đồng về cú pháp và kí tự (1990: 15-34), và Wierzbicka là người đưa ra các yếu tố phổ niệm ngữ nghĩa và tiền ngữ nghĩa. Chesterman đã đúc rút từ những điều trên, bao gồm các khái niệm về turtia comparationis có ảnh hưởng không nhiều lên lĩnh vực này. Ông cho rằng quan điểm này gặp vòng luẩn quẩn là một vài loại tương đồng lại được thừa nhận ở phần đầu sau đó lại xuất hiện ở phần kết luận. (Chesterman 1998: 52, 59). Vì vậy ông đề xuất việc sử dụng các phát ngôn hoặc các ví dụ về cách sử dụng ngôn ngữ như nguồn cơ sở dữ liệu. Bây giờ chúng ta có thể thấy sức nặng của các ý tưởng được đề xuất trong lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ học đối chiếu ở phương Tây. Trước Chesterman, có lẽ chỉ có Mary Snell-Hornby, một nhà dịch thuật và ngôn ngữ học người Đức đã kế thừa các kinh nghiệm trong nghiên cứu của bà. Bà đã định nghĩa cuốn sách “Tính miêu tả của động từ trong tiếng Đức và tiếng Anh” (Verb-descriptivity in German and English) năm 1983 gói gọn trong các từ sau: “nghiên cứu này dựa trên việc quan sát ngôn ngữ trực tiếp và không dựa trên các đành giá mang tính lý thuyết về ngôn ngữ khác; nói cách khác thay việc áp dụng lý luận sẵn có cho ngôn ngữ này, ta cần đi từ những nghiên cứu thực nghiệm đến các khái niệm mang tính lý thuyết” (Snell Hornby 1983: 13). Thật đáng tiếc, điều này bị các nhà lý luận đánh giá không đầy đủ trong ngành này.
Để hỗ trợ cho định hướng mang tính kinh nghiệm, Chesterman đã lấy ý kiến từ Brunot (1992), Jespersen (1924) và Mustajoki (1993, 1995) để lột tả ‘chức năng’ như sự biểu hiện của nghĩa và định hướng chức năng là một yếu tố thiết yếu để ‘đi từ nghĩa đến cấu tạo’ (Chesterman 1998:1). Trong một cách thức cụ thể hơn, ông chỉ ra rằng ‘ngữ pháp chức năng là không sản sinh, nó không liên quan đến quá trình này, trong khi nghĩa có thể mã hóa thành cấu trúc, hoặc thiết lập thuật toán để thực hiện việc này. Đúng hơn là, nó quan tâm đến việc làm rõ các lựa chọn có sẵn là các hệ đối vị có thể sắp xếp tự do trong giới hạn của ngữ pháp ở tất cả các thể loại, từ cú pháp, từ vựng, cấu tạo từ đến ngữ điệu’. Phương pháp đối chiếu này mang ý nghĩa thời đại theo cách đó nó có thể quay về với ý nghĩa truyền thống của Jespersen và Whorf. Để phương pháp ngôn ngữ này mở rộng, đề xuất này với chủ nghĩa kinh nghiệm của nó cũng mang tính cách mạng sẽ tái tạo và thay đổi toàn bộ hoàn cảnh tư duy bị chi phối bởi phương pháp diễn dịch trong truyền thống của Chomsky.
4. phương pháp luận CFA: phương thức đối chiếu hữu hiệu
Chúng ta thực hiện một phép đối chiếu như thế nào? Trên thực tế các bước tiếp theo là gì? Nghe có vẻ như là những điều sơ đẳng mà tất cả các nhà đối chiếu học sẽ giải thích trọn vẹn. Trường hợp này không như vậy, James sử dụng thuật toán gồm 4 bước: (1) tập hợp các dữ liệu, (2) thiết lập sự mô tả, (3) bổ sung dữ liệu nếu cần, (4) thiết lập các phép đối chiếu (1980: 63). Sự đối chiếu bắt đầu và kết thúc ở bước 4. Các mô hình sau của Halliday, Krzeszowski xây dựng gồm 3 bước, hình thành nghiên cứu về đối chiếu cổ điển: (1) Mô tả, (2) quan hệ đẳng kết không chứa liên từ, (3) so sánh (1990: 35). Ông đã đề xuất một cách thức mới cho nghiên cứu thực dụng của đối chiếu trực tiếp (1990: 101) mà cho đến nay không còn hữu dụng.
I. một thiết chế về văn hóa – xã hội của m (Cm) trong một ngôn ngữ I (CmLi), sẽ có hay không một thiết chế văn hóa – xã hội tương ứng n (Cn) trong ngôn ngữ j (CnLj)? Nếu câu trả lời là “không”, thì lưu ý sự đố chiếu văn hóa – xã hội. Nếu câu trả lời là “có”:
II. có hay không một cấu trúc ngôn ngữ (Fq) trong Lj (FqLj) cái mà ban đầu được kết hợp với CnLj theo cùng một cách, ở đó FpLi được kết hợp với CmLi? Nếu câu trả lời là “không”, lưu ý sự đối chiếu thực dụng. Nếu câu trả lời là “có”:
III. có hay không FqLj một dạng tương đồng về ký tự và cú pháp với FpLi? Nếu câu trả lời là “không”, bỏ qua việc phân tích. Nếu câu trả lời là “có”, thực hiện nghiên cứu đối chiếu về ký tự và cú pháp cho đến khi bạn phát hiện được sự đối chiếu ở một vài mức độ phân tích.
Tách khỏi sự phức tạp của ký hiệu, nó không đưa ra các phương thức cụ thể để tìm sự đối chiếu, nhưng lại thuận lợi cho bước tiếp theo nếu cần xác định một “sự tương đồng”. Rõ ràng Chesterman phải thử thách sự luẩn quẩn trong mệnh đề tương đương.
Chesterman liệt kê các đề xuất của ông về phương pháp phân tích chức năng đối chiếu tổng quát như sau (Chesterman 1998: 54):
1. dữ liệu cơ sở: các ví dụ về ứng xử ngôn ngữ trong các ngôn ngữ khác nhau.
2. các tiêu chuẩn so sánh: một sự giống nhau được nhận thức, của bất kỳ loại nào, giữa một hoàn cảnh X trong ngôn ngữ A và một hoàn cảnh Y trong ngôn ngữ B. Để phân tích đối chiếu, tiêu chuẩn này sau đó được dùng để xác định trong các thuật ngữ của một chế định về sự giống nhau được biểu hiện.
3. vấn đề: nguồn gốc tự nhiên của sự giống nhau này là gì?
4. giả thuyết ban đầu: X và Y có giống hệt nhau
5. Kiểm tra: dựa vào các dẫn chứng hỗ trợ hoặc bị loại bỏ nào trong giả thuyết ban đầu? Trong điều kiện nào của nó ?
6. Giả thuyết củng cố (nếu giả thuyết ban đầu sai): rằng mối quan hệ giữa X và Y có sánh đôi; hay là cách sử dụng X và Y phụ thuộc vào điều kiện tương ứng.
7. Kiểm tra giả thuyết này
Và lặp lại…
Chesterman nhấn mạnh rằng:”…niềm tin rõ ràng vào Phân tích Đối chiếu rằng khi thực hiện một phép phân tích thì vấn đề được giải quyết không giống như tôi nghĩ: kết quả từ việc phân tích không nhiều hơn một giả thuyết hay” (1998: 60).
Khi lướt qua, nó là một cấu trúc mộc mạc mà Chesterman đề xuất. Một ý tưởng đơn giản. Thật sự là không dễ dàng đi một quãng đường dài sau 40 năm đầy sự rối rắm của các hệ thống đa dạng từ khi cấu trúc luận đi vào “bức tranh” này. Là một quá trình khó khăn để đánh giá lại các thiết lập có sẵn bởi “sự giống nhau” hơn là “sự tương đồng” hoặc tertia comparationis. Hơn nữa, khuôn mẫu này không có sự ứng dụng và sự chỉnh sửa từ một lý thuyết nào đó, nó là một giả định mới và sự khái quát hóa được rút ra từ các yếu tố ngôn ngữ. Không phải là ngạc nhiên nếu các phát hiện và các thuyết mới được ra đời và vì vậy chúng ta phải, như lời của Whorf “các khái niệm khung không cũ hơn hay mới hơn, và tạo ra các điều kiện cần thiết cho thuật ngữ học” (Whorf 1937: 87). Chúng ta thấy được trong phát hiện mới này hình thành một chuyên ngành độc lập của ngôn ngữ học đối chiếu.
5. hòa hợp tính tương đối và tính phổ quát của ngôn ngữ
Sự tương phản lớn nhất trong nghiên cứu đối chiếu, một cái có thể sự trái ngược trong của tính tương đối và tính phổ quát của ngôn ngữ. Đề xuất về ngôn ngữ học đối chiếu, theo Whorf, cũng chính là đề xuất về tính tương đối của ngôn ngữ. Thuyết hỗ trợ đầu tiên của, cấu trúc luận, mặc dù không mang nguyên lý về tính tương đối sâu sắc như của Whorf, nhưng quả thật nó đã chứng minh cho sự cần thiết của CA, duy trì ngôn ngữ và văn hóa đó khác biệt với các cái khác. Sự mâu thuẫn thực sự xuất hiện khi tác phẩm cấu trúc cú pháp (syntactic structure) của Noam Chomsky được xuất bản trong cùng năm 1957 với tác phẩm ngôn ngữ học qua các nền văn hóa (Linguistics across cultures) nói chung đã giữ một vị thế trang trọng trong ngôn ngữ học đối chiếu, nó gạt bỏ hoàn toàn vòng luẩn quẩn của ngôn ngữ. Ngữ pháp cải biến đã chi phối nước Mỹ và các thuyết ngôn ngữ khác ở Tây Âu bởi quan điểm tính phổ biến của ngôn ngữ học. Nó đánh vào quan điểm này rằng tất cả các ngôn ngữ đều giống nhau về cấu trúc chiều sâu và vì vậy kiến thức của một ngôn ngữ thứ hai có thể được suy ngẫm từ “ngôn ngữ mẹ đẻ” quen thuộc, làm giảm sự cần thiết CA trong việc học ngoại ngữ (Krzeszowski 1990: 7-8; Preston 1975). Đối mặt với sự đe dọa của một ngành học đang mất đi, các nhà đối chiếu học thực sự rơi vào một tính thế khó khăn: trong khi họ kiên trì theo hướng này, họ không thích ý kiến về việc về chức năng bởi một quan điểm ngôn ngữ “lỗi thời”. Điều này chứng minh cho sự chấp nhận “cấu trúc chiều sâu” từ quan điểm phổ biến của ngôn ngữ như tertia compationis, và sau đó sự vay mượn cái khái niệm “cải biến” và “sinh sản” để quá trình đối chiếu trở thành quá trình cải biến từ cấu trúc chiều sâu đến cấu trúc bề mặt. Sự kém cỏi dai dẳng đi từ thời của Di Pietro (1971) đến James (1980), đến Krzeszowski (1990). Nó không phù hợp về lý thuyết và ứng dụng ở phương Tây, xuất hiện từ nhan đề gốc rễ sâu xa của ngôn ngữ học đối chiếu như là “nàng Lọ Lem của ngôn ngữ”. Đây là sự thật để phủ nhận địa vị của Whorf trong lĩnh vực ngôn ngữ học đối chiếu và đến bây giờ thì đã rõ ràng vì sao CA lại hạn chế chính bản thân mình khỏi lĩnh vực ứng dụng và không chiến đấu với các trường phái tư duy khác vì sự phát triển của ngôn ngữ.
Trong sự trân trọng rằng Chesterman đã chứng minh được một cách khác thường: đấu tranh lại các quan điểm ngôn ngữ đầy mâu thuẫn trước đó và cố gắng dung hòa triệt để sự đối lập. Đầu tiên Chesterman tổng hợp các tư tưởng khác nhau dựa trên giả thuyết cơ bản và phổ quát – rằng tất cả ngôn ngữ loài người đều mang một cấu trúc chung phổ biến – qua mức độ như là sự trang trọng, ngữ nghĩa và tính nhận thức (Chesterman 1998: 48). Đây là một bước tiến xa so với cách nhìn đơn thuần vào cấu trúc sâu về sự trang trọng và về ngữ nghĩa. Tiếp theo, Chesterman cho rằng cho đến nay giả thuyết về tính tương đối của ngôn ngữ chính bản thân nó là tương đối, sử dụng các luận điểm sắc xảo và ấn tượng như “sự đánh giá” để diễn tả ảnh hưởng của ngôn ngữ lên tư duy là không cần thiết. Ông đã ví ảnh hưởng này với những điều mà nhà triết học người Đức Popper gọi là “sự kiểm soát mềm dẻo” (plastic control). Cuối cùng, ông bỏ qua cuộc tranh luận tay đôi vô bổ giữa hai trường phái về khái niệm sự giống nhau. Sự giống nhau, là tính phổ quát chính thức nguồn gốc ẩn dấu trong ngữ pháp ở tất cả ngôn ngữ của loài người, kêu gọi các nhà phổ quát luận do sự thiết lập của các định chế về sự giống nhau, ít nhất là từ lập trường tâm lý trong nhận thức. Các định chế này xác định điều mà ngôn ngữ nói sẽ được giải thích cặn kẽ là giống với một ngôn ngữ nói khác giữ vai trò cơ sở cho sự khái quát hóa. Tuy nhiên, nơi mà ngôn ngữ được quan tâm, thì nó sẽ không bao giờ có thể đạt đến sự chính xác về nghĩa – rằng nó không giống nhau mà cũng không khác nhau hoàn toàn – và vì vậy nó sẽ không dẫn đến việc thừa nhận một cơ sở chung đồng nhất. Điều này nói lên rằng, thực tế chúng ta đang nhìn vào mức độ bao trùm. Đây là nơi tính tương đối được thiết lập. Và sự vận hành của CA thực sự không phải là các dẫn chứng về sự giống nhau hay sự đồng nhất nhưng là sự so sánh nguyên mẫu – những cái là đặc trưng văn hóa và vì vậy nhìn chung là có tính chia sẻ – và thấy được mức độ mà chúng bao phủ. Quả thật Chesterman đã tạo một vị thế to lớn với những thành tựu về tính tương đối và tính phổ quát của ngôn ngữ.
Những đột phá vượt qua CA truyền thống mà ông đạt được, James đã đề xuất 2 định hướng: chiều dọc (văn bản) và chiều ngang (phân tích diễn ngôn). Chesterman đã tóm tắt luận thuyết của mình theo 2 hướng: chuyển động hướng nội (hướng vào sự nhận thức để đi vào ý thức của người sử dụng ngôn ngữ) và chuyển động hướng ngoại (hướng đến tính thực dụng), dành nhiều sự quan tâm vào chuyển động hướng nội có được giá trị về lý thuyết lớn hơn. Chúng ta đã thấy được cách thức mà có sở lý thuyết từ CA đạt được trong nhiều năm qua: trong thời kỳ đầu, cấu trúc luận, thời đại của Di Pietro, ngôn ngữ học tạo sinh cải biến; trong thời đại của Carl James, ngôn ngữ học xã hội và ngôn ngữ học tâm lý; trong thời kỳ của Krzeszowski, nghĩa học sản sinh; và dẫn đầu là Chesterman, tách khỏi ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học nhận thức giữ một vai trò quan trọng. Chúng ta lưu ý rằng với Chomsky yêu cầu trong lĩnh vực nhận thức, có hai trường phái tư tưởng và Chesterman lấy cảm hứng từ nhà sinh học thần kinh nổi tiếng, Gernald Edelman (1992), dành giải Nobel sinh học năm 1972. Ông chỉ ra rằng Edelman rất quan trọng đối với những nhà chủ nghĩa hình thức (formalist) định hướng của Chomsky, không tin rằng có booj phận tiên quyết ngôn ngữ nào đó nằm sẵn trong đầu. Ý nghĩa của chính nó là tương tác, được quyết định từng phần bởi môi trường và cộng đồng giao tiếp, và bởi bản thân người nói. Nhưng nghiên cứu của Edelman hỗ trợ cho quan điểm của Lakoff, Langacker và những người khác trong ngữ pháp nhận thức; và Rosch và cộng sự trong thuyết về nguyên mẫu - vật khởi đầu.
6. phá bỏ rào cản để hình thành một mô hình phân tích chức năng đối chiếu rất tinh tế đến ngày nay.
Ngành học này trong thời gian dài đã bị phân chia bởi nhiều lĩnh vực phụ cụ thể quá nhiều để mỗi lĩnh vực tập trung vào khu vực riêng của mình, cho thấy rất ít hoặc không có sự quan tâm vào những điều mà lĩnh vực khác thực hiện. Các nghiên cứu về quan điểm vi mô không liên quan đến tầm nhìn vĩ mô và ngược lại; các nghiên cứu về cú pháp biết rất ít về văn bản và chúng cụ thể hóa trong ngữ pháp văn bản mà không bao gồm phân tích diễn ngôn. Trong khi James là công cụ hướng dẫn sự phát triển trong đánh giá vĩ mô, không có đề xuất cụ thể được lập ra. Mô hình đối chiếu trên văn bản của Enkvist có thể đã được đổi mới nhiều hơn và các dụng pháp đối chiếu của Olesky đáng lẽ đa sáng tạo hơn. Krzeszowski dường như đã tạo các mô hình mẫu hoành tráng hơn, nhưng cách trình bày văn bản và dụng pháp của ông ít hiệu quả hơn. Connor đã bổ sung cho thiếu sót đó, nhưng thuật tu từ đối chiếu rõ ràng là nằm ngoài xu hướng nghiên cứu CA. cho đến khi Chesterman (1998), các nghiên cứu đối chiếu không bị phân ra nhiều phần. Chesterman đặt tất cả các phần đó vào khuôn khổ phân tích chức năng của ông và chương cuối nói về thuật tu từ thực tế là bao gồm cả ngôn ngữ học văn bản và dụng pháp, chủ yếu bởi vì ông đã định nghĩa văn bản là một cấu trúc viết và dụng pháp là cấu trúc động từ liên quan.
Mô hình của Chesterman tạo ra sự khác biệt theo nhiều cách. Bắt đầu với nghĩa, mẫu này phù hợp trong muc tiêu và cơ sở của lý thuyết, định nghĩa theo nhiều cách khác nhau được diễn đạt ở tất cả các mức độ và tiêu chuẩn tương ứng. Mẫu này cũng phù hợp trong việc phân loại ngôn ngữ của nó ở nhiều mức độ khác nhau bao gồm cú pháp, văn bản, và dụng pháp hoặc trong thuật ngữ của ông, cấu trúc, cấu trúc vĩ mô và cấu trúc tương tác (interstructure). Đi từ cú pháp đến văn bản thể hiện sự mở rộng theo chiều dọc, trong khi đi từ văn bản đến dụng pháp, sự mở rộng chiều ngang, để tạp thành cấu trúc vĩ mô và cấu trúc tương tác. Chesterman đã rất thông minh khi tiếp thu những điều hay nhất từ phát hiện nghiên cứu hiện có. Khuôn khổ mô hình phân tích của ông được lấy từ Mustajoki; ngôn ngữ học văn bản được lấy từ Enkvist (1984), Egon Werlich (1976), Beaugrande và Dressler (1981), Halliday và Hasan (1976), Martin (1992) và Connor (1996); dụng pháp lấy từ Mey (1993), Stubbs (1983), Sperber và Wilson (1986), Brown và Levinson (1988), cũng như Gutt (1991). Nó quá ấn tượng là Chesterman đã thông minh kết hợp rất nhiều tư tưởng vào khuôn khổ của ông. Tất nhiên là kết quả quá vĩ đại, mới mẻ và giải pháp hiệu quả.
1.3.3.5 sự phát triển lập trường ngôn ngữ học đối chiếu của Whorf
Bước sang chương này, chúng ta không nên bỏ qua việc đánh giá cách thức mà quan điểm ngôn ngữ học đối chiếu của Whorf hình thành và phát triển trong nghiên cứu hiện đại. Benjamin Lee Whorf không chỉ đặt cho ngôn ngữ học đối chiếu một cái tên,mà còn vạch ra con đường phát triển của nó , tuy nhiên những thành tựu của ông đã bị phủ nhận trong gần nửa thế kỷ qua. Chỉ rất ít người biết đến công việc này của Whorf như Chesterman .Khi thuật ngữ đối chiếu đem lại sự công bằng cho Whorf ,thậm chí sau khi ông không được công nhận là một người tài năng trong lĩnh vực này. Tại sao không ? Có lẽ chúng ta có thể đưa ra một số lí do :
1. Các chu kỳ trong tư tưởng ngôn ngữ học. Ngôn ngữ học đối chiếu phát triển vào thời điểm mà Chomsky đang tạo ra một cuộc cách mạng từ thuyết của ông .các lý thuyết ngôn ngữ học trong tiểu thuyết, cụ thể là ngữ pháp phổ biến đã rơi vào tình trạng bế tắc với giả thuyết tính tương đối trong ngôn ngữ học của Whorf. Các nhà đối chiếu học đã sợ bị nhạo báng và đã từ bỏ các xung hướng phát triển mới của ngôn ngữ học, phải buộc mình vào các quan điểm cổ hủ.
2. Vị thế tự thân của ngôn ngữ học đối chiếu . Như chúng ta biết có rất nhiều các thuật ngữ khác nhau về thuật ngữ ngôn ngữ đối chiếu :” Ngôn ngữ học đối chiếu”, ”Phân tích đối chiếu” ,”Nghiên cứu đối chiếu” (Xu Yulong 2002: 17),và một số thuật ngữ khác như là :Ngôn ngữ học miêu tả so sánh, sự mâu thuẫn của ngôn ngữ (Fisiak 1980: 1 ), cũng như ngữ pháp đối chiếu. Nhiều tác giả thích dùng thuật ngữ : Phân tích đối chiếu bao gồm James và Chesterman. Còn đối với Robert Kaplan, ông thích dùng thuật ngữ “Thuật tu từ đối chiếu hơn thuật ngữ “lý thuyết tu từ đối chiếu” ( Kaplan 2001: vii). Đây là bằng chứng về vị trí trong ngôn ngữ học ứng dụng, để nghĩ nó như là một ngành khoa học ứng dụng phục vụ cho nhu cầu dạy học ngôn ngữ thứ hai. Mặc dù nó cũng được đặt tên là “ngôn ngữ học đối chiếu lý thuyết”, thì mục đích của nó chỉ đơn giản là nghiên cứu một khía cạnh cụ thể hoặc một mô hình cụ thể đáp ứng nhu cầu phân tích cụ thể nào đó. Còn bản thân nó, nghiên cứu về lý luận ngôn ngữ học sẽ không bao giờ là mục đích của ngôn ngữ học đối chiếu. Vì lý do này, hầu hết các học giả đều e ngại tránh xa lý luận ngôn ngữ học trong khi lý luận ngôn ngữ không mang vai trò nghiên cứu đối chiếu.
3. Sự cụ thể hóa trong nghiên cứu ngôn ngữ. Trong truyền thống học thuật phương Tây là cần có sự phân loại chi tiết về lĩnh vự nghiên cứu này. Mỗi lĩnh vực đều bị giới hạn trong biên giới của nó. Khi một lĩnh vực xuất hiện, ngành nghiên cứu có liên quan có điểm chung, nhưng khi chúng được thành lập như các ngành học cụ thể, sự xâm phạm biên giới sẽ bị kìm hãm. Những tiền đề như thế sẽ tạo ra một ngành học hơn là làm mới lại nội dung dưới một khuôn khổ cũ. Ví dụ, khi sự thống nhất được hình thành bao gồm giả thuyết của Whorf trong ngôn ngữ học nhân chủng học, ngôn ngữ học đối chiếu không bao giờ vượt khỏi giới hạn của nó. Để đạt được sự phát triển trong giả thuyết của Whorf, nó sẽ hữu ích hơn khi nhìn sang miền đất ngôn ngữ học đối chiếu “trong sạch”.
Thực tế là, giả thuyết về tính tương đối ngôn ngữ học của Whorf không thể tách rời quan điểm của ông về ngôn ngữ đối chiếu. Hai khía cạnh này đan kết vào nhau chặt chẽ. Để hiểu được điều này, chúng ta phải quay ngược thời gian về quá khứ. Giả thuyết của Whorf ra đời trong bối cảnh cao trào của nhân chủng học ngôn ngữ ở Mỹ khi có rất nhiều ngành khoa học kinh nghiệm về rất nhiều ngôn ngữ thuộc hoàn toàn các họ ngôn ngữ khác nhau, từ họ ngôn ngữ Anh hoặc Âu-Ấn như ngôn ngữ Ấn Độ. Thể hiện trong làn sóng ngành khoa học này, Franz Boas (1991), Edward Sapir (1949) và Whorf đã nhận ra sự bất hợp lý trong ngôn ngữ học so sánh trước đó có thể ứng dụng trước hết váo ngôn ngữ của các họ ngôn ngữ giống nhau để phù hợp với mục đích mới trong nghiên cứu. Các yếu tố nghiên cứu mới là cha đẻ của các thuyết ngôn ngữ mới. Giả thuyết của Whorf-Sapir đã nổi lên một cách khá tự nhiên như là kết quả của nhu cầu để đối chiếu (các ngôn ngữ không liên quan) hơn là so sánh (ngôn ngữ có liên quan). Tính tương đối của ngôn ngữ chỉ có ý nghĩa trong ngữ cảnh các ngôn ngữ đối chiếu khác xa nhau. Nếu không, nó sẽ bị loại khỏi ngữ cảnh (context). Bây giờ đã rõ ràng rằng Whorf đã có lí do để đặt tên ngôn ngữ đối chiếu và xác định nhiệm vụ của nó, điều mà đối với Whorf và nhiều người khác sẽ là một ngành học tìm kiếm sự đối chiếu trong các thuật ngữ ngôn ngữ và văn hóa để lột tả sự tự nhiên của ngôn ngữ loài người. Sự phát triển trong lịch sử đã chứng sự lệch lạc trong khoảng nửa thế kỷ. Hy vọng rằng với cách gọi của Chesterman về phương hướng hướng nội, ngành học này sẽ có cơ hội quay về con đường cội nguồn bởi Whorf. Trong nhấn mạnh này, những tiến bộ đáng kể trong ngành học này ở phương Tây sẽ phải lấy cảm hứng từ tư tưởng lý luận của Whorf.
Trong thời gian dài, từ cuối những năm 1950, ngữ pháp phổ quát đã có ảnh hưởng vượt trội trong tất cả các tư duy. Chủ nghĩa hình thức đi trong con đường này, trong khi giả thuyết của Whorf nhấn mạnh nghĩa, đặc điểm ngôn ngữ và đặc điểm văn hóa đã ẩn náu. Một sự thay đổi đã được chứng kiến ở những năm 1970: sự thống trị của tư tưởng của Chomsky. Các chủ đề này làm lộ diện ý nghĩa đã được ngầm kết luận của ngôn ngữ học và tâm lý học, và các yếu tố văn hóa xã hội khác. Nhiều nhánh phụ trong nghiên cưus ngôn ngữ học xuất hiện. Sẽ chắc chắn để kết luận rằng phương hướng hình thức và những dẫn chứng về xu hướng ngữ pháp phổ quát để loại bỏ giả thuyết của Whorf. Nói cách khác, bất cứ sự liên quan nào đến các khía cạnh tâm lý học, xã hội, văn hóa của ngôn ngữ sẽ chịu ảnh hưởng, nhiều hoặc ít bời giả thuyết của Whorf. Wierzbicka đặt nó vào một nhan đề khác: đối với Humboldt và Karl Vossler (1994), nó là “linh hồn của ngôn ngữ” và sự biểu hiện của tính dân tộc (ngôn ngữ là sự diễn đạt của Volksgeist); đối với Sapir (1921) và Whorf (1956), nó được đặt một thuật ngữ là “ngôn ngữ là sự hướng dẫn đến thực tế xã hội”, đối với Dell Hymes (1961), “phong cách nhận thức” và bản thân Wierzbicka gọi nó là dụng pháp văn hóa ngang hàng. Tất cả chúng là giống nhau. Từ những năm 1970, các ý kiến của Whorf được cấu thành từ các lĩnh vực sau ở nhiều mức độ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét